Cách đây 92 năm, vào ngày 28/7/1929, tổ chức Công đoàn Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng đối với quá trình đấu tranh, phát triển của phong trào công nhân Việt Nam, là hạt nhân vận động, tập hợp giai cấp công nhân dưới ngọn cờ cách mạng vinh quang của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhìn lại sự ra đời và quá trình phát triển Công đoàn Việt Nam, có thể thấy, tổ chức Công đoàn Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành và có những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, luôn đồng hành với sự phát triển đất nước qua các thời kỳ. Công đoàn Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vào thời kỳ nước ta dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp lần thứ nhất (1897-1914), giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển nhanh chóng trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1918-1930). Do bị cả thực dân và phong kiến bóc lột hà khắc, giai cấp công nhân Việt Nam đã vùng lên đấu tranh mạnh mẽ. Vào những năm 1920, phong trào đấu tranh ở Việt Nam ngày càng phát triển và nhân rộng. Từ trong đấu tranh đã hình thành tính giai cấp và những người công nhân tập hợp lại tổ chức các hội như: Tương tế, Phường hội, Ái hữu, Nghiệp đoàn, Công Hội… Tiêu biểu nhất trong số này là sự ra đời của Công hội Ba Son do Tôn Đức Thắng thành lập (1920) tại Sài Gòn. Mặc dù số lượng công hội còn ít nhưng những công hội đầu tiên này chính là người đặt nền móng và chịu ảnh hưởng của tư tưởng công đoàn cách mạng và cũng là mầm mống quan trọng cho phong trào công nhân và phong trào công đoàn Việt Nam.
Cuối năm 1924, đầu năm 1925, tại Quảng Châu, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, Người đặt cơ sở lý luận cho Công đoàn Việt Nam đã đề ra tôn chỉ mục đích hoạt động của Công hội, đào tạo hàng loạt cán bộ ưu tú trong tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội mà nòng cốt là Cộng sản đoàn. Cuối năm 1928, đầu năm 1929, nhiều tổ chức Công hội đỏ được thành lập ở các xí nghiệp và phát triển, dần dần được thống nhất thành tổng Công hội đỏ cấp tỉnh, thành phố.
Ngày 28/7/1929, tại số nhà 15 phố Hàng Nón, Hà Nội, Đại hội thành lập tổng Công hội đỏ miền Bắc đã khai mạc. Đại hội thông qua các nhiệm vụ đấu tranh và điều lệ tóm tắt, quyết định ra tờ báo Lao động và tạp chí Công Hội Đỏ, bầu ban chấp hành. Tiếp đó, các tổng Công hội đỏ ở miền Trung, miền Nam, được thành lập. Từ năm 1930, tổng Công hội đỏ đã được hoạt động khắp cả nước. Như một tất yếu của lịch sử, các tổ chức Công hội sơ khai ra đời, đặc biệt là tổ chức Công hội đỏ do người công nhân ưu tú Tôn Đức Thắng (sau này là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) sáng lập đã đáp ứng yêu cầu cấp thiết của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ 20, tạo một bước ngoặt to lớn trong phong trào lịch sử đấu tranh của công nhân, đó là chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, đã có những đóng góp quan trọng vào phong trào đấu tranh của công nhân thế giới. Bằng con đường “vô sản hóa”, nhiều tổ chức Công hội đỏ được thành lập ở các xí nghiệp và phát triển, dần dần được thống nhất thành Tổng Công hội đỏ cấp tỉnh, thành phố.
Sự ra đời của Công đoàn cách mạng Việt Nam có ý nghĩa to lớn, đánh dấu sự lớn mạnh của phong trào công nhân và sự trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam, khẳng định luận điểm nổi tiếng của Lênin “Giai cấp công nhân ở bất kỳ nơi nào trên thế giới cũng chỉ phát triển và chỉ có thể phát triển bằng con đường công đoàn, bằng sự tác động qua lại giữa công đoàn và Đảng của giai cấp công nhân, chứ không thể bằng con đường nào khác”.
Trải qua các thời kì cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn Việt Nam có nhiều tên gọi khác nhau để phù hợp với nhiệm vụ từng giai đoạn: Công hội đỏ (1929-1935), Công nhân cứu quốc (1941-1945), Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1946-1961), Tổng Công đoàn Việt Nam (1961-1988), Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1961 đến nay).
Thời gian qua, Công đoàn Việt Nam đã không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, đã vận động, tập hợp đông đảo công nhân, viên chức, lao động dưới ngọn cờ cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để có những đóng góp to lớn trong thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; tổ chức và vận động công nhân, viên chức, lao động hưởng ứng thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đội ngũ công nhân, viên chức, người lao động đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, đang có mặt trong tất cả các ngành, nghề, các thành phần kinh tế, thể hiện bản lĩnh và sự năng động sáng tạo trong lao động, luôn phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong sự nghiệp đổi mới, tổ chức Công đoàn là lực lượng quan trọng trong việc tập hợp đoàn kết rộng rãi công nhân, viên chức, lao động đi đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đại diện chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam luôn là lực lượng hăng hái đi đầu trong công cuộc đổi mới, góp phần tạo nên những thành tựu bước đầu, nhưng rất quan trọng trong đời sống kinh tế – xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và duy trì phát triển sản xuất, quyết tâm đổi mới hoạt động, tiếp cận với hình thức tổ chức kinh tế mới, công nghệ mới hiện đại, thúc đẩy phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ Việt Nam hội nhập kinh tế Thế giới.
Trong suốt chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc, bằng quá trình hy sinh phấn đấu không mệt mỏi của nhiều thế hệ nối tiếp nhau, tổ chức Công đoàn Việt Nam đã xây dựng được truyền thống vô cùng quý báu, đó là bản chất cách mạng, sự thống nhất về chính trị – tư tưởng và hành động, thực sự là sợi dây nối liền giữa Đảng với quần chúng công nhân, là nòng cốt trong mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam. Lịch sử cũng đã chứng minh, Công đoàn Việt Nam là tổ chức duy nhất, có đủ bản lĩnh và năng lực đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của giai cấp công nhân và người lao động. Nhiều thế hệ cán bộ, đoàn viên, người lao động đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, góp phần viết nên trang sử hào hùng dựng nước, giữ nước của dân tộc, của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam, xứng đáng với lòng tin yêu của Đảng và Nhân dân.
Với truyền thống tốt đẹp của giai cấp công nhân, của Công đoàn Việt Nam và kinh nghiệm hoạt động trong 92 năm qua, đặc biệt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của Chính phủ và Quốc hội cũng như các ban, bộ, ngành, các địa phương, các cấp Công đoàn tiếp tục phát huy truyền thống, đoàn kết dưới lá cờ vinh quang của Đảng, sẽ khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, xây dựng giai cấp công nhân và Công đoàn ngày càng vững mạnh, xứng đáng là tổ chức đại diện cho người lao động, là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới góp phần xây dựng Đất nước phát triển bền vững.
Ngọc Lan